TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH 1. Cơ sở lý luận. - Trong lịch sử hàng ngh...
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ
NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH
1. Cơ sở lý luận.
- Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước, cha ông ta đã tích lũy được biết bao kinh nghiệm quý báu về
xây dựng nhà nước, được phản ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc như “Đại việt
sử ký toàn thư”, “Lịch triều hiến chương loạn chí”… Kinh nghiệm trị nước cũng
ghi lại trong các bộ luận nổi tiếng như “Hình thư, Quốc triều hình luật, bộ
luật Hồng Đức…” - Những yếu tố tích cực của nhà nước thân nhân thời kỳ phong
kiến hưng thịnh trong lịch sử dân tộc: “ nước lấy dân làm gốc”, tiếp thu nho
giáo … là những hành trang đầu tiên Hồ Chí Minh mang theo trên con đường cứu
nước và tìm kiếm một mô hình nhà nước tiến bộ cho đất nước sau khi giành độc
lập.
2. Cơ sở thực tiễn.
- Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị
Vécxây bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân
tộc mình. Đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền
tự quyết của các dân tộc với các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, kết hợp
chặt chẽ quyền dân tộc và quyền con người. - Trên hành trình cứu nước, Hồ Chí
Minh đã khảo sát mô hình Nhà nước tư sản Mỹ, Pháp. Người phát hiện ra đằng sau
những lời hoa mỹ về “ quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc” của tuyên ngôn độc lập 1776 đó là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn
phân biệt chủng tộc và biết bao tàn bạo, bất công khác. Người coi đó là “những
cuộc cách mạng không đến nơi” vì ở đó chính quyền vẫn ở trong tay một số ít
người. - Sau khi đến Liên Xô, Người đã tìm thấy mô hình nhà nước kiểu mới: “… phát
ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,… ra sức tổ chức kinh tế mới,
để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng” đã gợi ý cho Người về một kiểu nhà
nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai mà Người đã nêu ra trong Chánh
cương vắn tắt của Đảng năm 1930. - Từ mô hình nhà nước công nông binh chuyển
sang mô hình nhà nước đại biểu cho khối đại đoàn kết của toàn thể quốc dân là
một bước chuyển sáng suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực
tiễn dân tộc, phù hợp với sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng
Việt Nam.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân,
do dân, vì dân. Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền
thì vấn đề cơ bản của chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi
cho ai. Năm 1927, trong cuốn “Đường Kách Mệnh” Bác chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh
làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao kách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới
khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Sau khi giành độc lập,
Người khẳng định, “nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân,
bao nhiêu lợi ích đều vì dân . nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”. Đó là điểm khác nhau giữa nhà nước ta với nhà nước bóc lột đã từng tồn
tại trong lịch sử. Thế nào là nhà nước của dân? Nhà nước của dân thì mọi người
dân là chủ, người dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có
nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành
thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện do
dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là công bộc của dân. Thế nào là nhà
nước do dân? Nhà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của mình, nhà
nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó
lại do dân phê bình xây dựng, giúp đỡ. Do đó Bác yêu cầu tất cả các cơ quan nhà
nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự kiểm soát của nhân dân. “nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền
đuổi chính phủ” nghĩa là khi cơ quan nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn nó. Thế nào là nhà nước vì
dân? Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà
nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân. “Việc gì có lợi
cho dân ta phải hết sức làm, Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh” Hồ Chí
Minh chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với cán bộ nhà nước
là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân thừa uỷ quyền. Là người phục
vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo , hướng dẫn nhân dân.
“Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ
thì nhân dân không ai dẫn đường”. Cán bộ là đày tớ của nhân dân là phải trung
thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính ., là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ
hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền tài
. Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản
chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước ta. a.
Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị. Nó luôn mang bant chất
giai cấp. Nhà nước ta mang bản chất giai cấp, “là nhà nước dân chủ nhân dân dựa
trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Bản chất
giai cấp công nhân biểu hiện ở chỗ: - Do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo bằng những chủ trương, đường lối thông qua tổ chức của mình trong
quốc hội, chính phủ, các ngành, các cấp của nhà nước; được thể chế thành pháp
luật, chính sách, kế hoạch của nhà nước. Đảng không bao biện, làm thay công
việc của Nhà nước. - Bản chất giai cấp còn thể hiện ở định hướng đưa nước ta đi
lên chủ nghĩa xã hội. “Bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân
theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên
tiến.” - Bản chất giai cấp của nhà nước ta còn thể hiện ở nguyên tắc tổ chức cơ
bản là nguyên tắc tập trung dân chủ. “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ .
mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng
thời phải tập trung cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa
xã hội.” Bên cạnh dân chủ, Bác cũng nhắc đến chuyên chính, “chế độ nào cũng có
chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai?”. “dân chủ là của quý báu của
nhân dân, chuyên chính là cái khoá, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại . dân chủ cũng
cần chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ.” b. Bản chất giai cấp của nhà nước ta
không làm triệt tiêu tính nhân dân, tính dân tộc mà thống nhất, hài hòa trong
nhà nước đại đoàn kết dân tộc. Tính thống nhất thể hiện ở chỗ: - Nhà nước dân
chủ mới ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ với sự hy sinh
xương máu của bao thế hệ cách mạng. - Nhà nước ta vừa mang bản chất giai cấp
vừa có tính nhân dân và tính dân tộc vì nó lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng
và bảo vệ lợi ích cho nhân dân. Trong thời gian Người lãnh đạo đất nước, nhờ
sách lược mềm dẻo, cũng như Người dung nạp nhiều nhân sĩ, trí thức, quan lại
cao cấp của chế độ cũ vào bộ máy nhà nước đã thể hiện tư tưởng nhà nước ta là nhà
nước của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. - Nhà nước ta vừa ra đời đã đảm nhiệm
vai trò lịch sử là tổ chức toàn dân kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do
của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới.
3. Tưtưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.
a.
Trước hết phải xây dựng một nhà nước hợp hiến. Nhà nước có hiệu lực pháp lý
mạnh mẽ trước hết là một nhà nước hợp hiến. Vì vậy sau khi giành chính quyền,
Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với
quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinh nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp, tổng tuyển cử bầu ra quốc hội rồi từ đó
lập chính phủ và các cơ quan nhà nước mới. Sau đó Người bắt tay xây dựng hiến
pháp dân chủ, tổ chức TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập
uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí
Minh được Quốc hội nhất trí bầu làm chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến.
Đây là chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và
hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại. b. Quản lý Nhà
nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống Nhà nước pháp
quyền có hiệu lực pháp lý là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải
làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong nhà nước dân chủ, dân chủ và
pháp luật luôn đi đôi với nhau, đảm bảo cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Mọi quyền
dân chủ phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật. Xây dựng một nền
pháp chế XHCN đảm bảo việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm của
Hồ Chí Minh. Là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ, có công lớn trong sự
nghiệp lập hiến và lập pháp: một mặt, Người chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ
thống pháp luật của nhà nước ta, mặt khác, Người chăm lo đưa pháp luật vào cuộc
sống, tạo cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát
việc thi hành của các cơ quan nhà nước và của nhân dân. “Trăm điều phải có thần
linh pháp quyền”. Sức mạnh là do con người và vì con người, vì vậy, Hồ Chí Minh
luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công
việc của chính phủ đồng thời yêu cầu mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành
pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào. Công tác giáo dục luật cho mọi
người, đặc biệt là cho thế hệ trẻ cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một nhà
nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý, đảm bảo quyền và nghĩa vụ công dân được
thực thi trong cuộc sống. c. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của nhà
nước có đủ đức và tài. Để tiến tới một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ,
Bác Hồ cho rằng, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội
ngũ viên chức nhà nước có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp
vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính chí công vô tư,
một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân công lý. Yêu cầu của đội ngũ cán bộ
phải có đức và tài trong đó đức là gốc, đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và
có hiệu quả. Cụ thể là: (1) Tuyệt đối trung thành với cách mạng. (2) Hăng hái,
thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. (3) Phải có mối liên hệ mật
thiết với nhân dân. (4) Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách,
dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là những tình huống khó khăn, “thắng
không kiêu, bại không nản”. Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng
cán bộ nhà nước, Người ký sắc lệnh ban hành Quy chế công chức. Công chức theo chế
độ chức nghiệp, vì vậy phải qua thi tuyển công chức để bổ nhiệm vào ngạch, bậc
hành chính. Nội dung thi tuyển khá toàn diện bao gồm 6 môn thi: chính trị, kinh
tế, pháp luật, địa lý, lịch sử và ngoại ngữ. Điều này thể hiện tầm nhìn xa,
tính chính quy hiện đại, tinh thần công bằng dân chủ . của tư tưởng Hồ Chí Minh
trong việc xây dựng nền móng cho pháp quyền Việt Nam. Nhưng trong vấn đề cán bộ
quản lý nhà nước. điều quan tâm của Người vẫn là phẩm chất đạo đức và tinh thần
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, bởi thiếu điều cơ bản này thì dù có năng lực
mấy cũng không dùng được.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. a. Tăng cường pháp luật đi đôi với
đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Do tập quán của kinh tế tiểu nông, muốn hình thành
ngay một nhà nước pháp quyền là chưa được, vì vậy một mặt phải nhấn mạnh vai
trò của luật pháp, đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong
nhân dân nhất là giáo dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức
xã hội có thể kết hợp cho nhau. Khắc phục những biểu hiện tiêu cực sau: - Đặc
quyền, đặc lợi. - Tham ô, lãng phí quan liêu. - “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu
ngạo”. Đạo đức cao nhất theo Hồ Chí Minh là “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân,
Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Người luôn
luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức
mạnh của pháp luật. Giữa đạo đức và pháp luật có quan hệ khăng khít với nhau.
Pháp luật bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào
đó và biến nó thành thói quen, chuẩn mực đạo đức càng khó bao nhiêu thì vai trò
của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Đi đôi với đạo đức, Người kịp thời ban
hành pháp luật. Nhưng ban hành sắc lệnh tương đối dễ, tổ chức đưa nó vào cuộc
sống , làm cho nó có hiệu lực trong thực tế thì khó hơn nhiều.
TẢI VỀ: http://123doc.vn/share-tieu-luan-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-nha-nuoc-cua-dan-do-dan-va-vi-dan/MTk4MzY=
COMMENTS